Lịch sử cổ đại Babylon

Nữ hoàng của Đêm. Hình ảnh có thể là một khía cạnh của nữ thần Ishtar, nữ thần tình yêu và tình dục của ngườ Babylon

Một phiến đá đã mô tả triều đại Sargon của Akkad (khoảng thế kỷ 23 TCN theo lịch cổ đại) đã nhắc đến thành phố Babylon. Theo Biên niên sử Weidner, Sargon đã xây dựng Babylon "ngay trước Akkad". Một biên niên sử sau đó cũng xác nhận rằng Sargon "đào đất từ cái hố của Babylon và tạo nên một phần của Babylon ngay bên cạnh Akkad." Van de Mieroop cho rằng các nguồn này có thể đã đề cập đến vua Sargon II của Đế quốc Tân Assyrian thay vì vua Sargon của Akkad.[9]

Nhà ngôn ngữ học I.J. Gelb gợi ý rằng cái tên Babil có liên quan đến một thành phố trước đó. Nhà khảo cổ Herzfeld đã viết về thành phố Bawer của Iran cổ đại, và tên Babil có thể đã đề cập đến Bawer. David Rohl cho rằng Babylon gốc được xác định với Eridu. Joan Oates tuyên bố trong cuốn sách của bà rằng Babylon có nghĩa là Cánh cổng của các vị thần, tuy nhiên tuyên bố này đã không còn được các học giả hiện đại chấp nhận. Sách Sáng Thế tuyên bố rằng một vị vua trong Kinh thánh tên Nimrod là người sáng lập của Babel (Babylon).

Vào khoảng thế kỷ thứ 19 trước Công Nguyên, phần lớn miền nam Mesopotamia đã bị chiếm đóng bởi người Amorite, các bộ lạc du mục đến từ phía bắc Levant. Không như người Akkadian bản xứ ở phía nam Mesopotamia và Assyria, người Amorite không canh tác nông nghiệp, họ thích lối sống bán du mục, chăn cừu. Theo thời gian, người Amorite có nhiều thương nhân nổi lên và thành lập các triều đại độc lập của họ ở các thành bang phía nam Mesopotamia. Trong đó đáng chú ý là Isin, Larsa, Eshnunna, Lagash, và sau này là Babylon.

Thời kỳ Babylon cũ

Bản đồ lãnh thổ Babylon từ khi ông lên ngôi và năm 1792 trước Công Nguyên đến khi ông chết vào năm 1750 trước Công Nguyên

Triều đại Babylon đầu tiên được sáng lập bởi một tộc trưởng người Amorite tên Sumuabum vào năm 1894 trước Công Nguyên, người đã tuyên bố độc lập từ thành bang Kazallu lân cận. Người Amorite không phải tộc người bản xứ của vùng Mesopotamia, họ là tộc người bán du mục phía tây bắc Canaanite đã xâm lăng vùng đất này từ phía bắc Levant. Cùng với người Elamite ở phía đông, đã bị mất quyền kiểm soát các thành bang Akkadian ở phía nam Mesopotamia nhờ sự can thiệp của các vị vua quyền lực của Đế chế Assyria cũ từ phía bắc Mesopotamia vào thế kỷ 21 và 20 trước Công Nguyên. Tuy nhiên, khi người Assyrian chuyển sự chú ý sang việc mở rộng thuộc địa ở Tiểu Á, người Amorite đã bắt đầu thống trị vùng này.

Ban đầu, Babylon chỉ là một thành bang nhỏ, kiểm soát một ít lãnh thổ xung quanh, thậm chí bốn nhà cai trị người Amorite đầu tiên không có được danh hiệu vua của thành phố. Nó vẫn bị lu mờ bở các thành bang cũ hơn và mạnh mẽ hơn như Assyria, Elam, Isin và Larsa cho đến khi nó trở thành thủ đô Đế chế Babylon ngắn ngủi của Hammurabi vào khoảng một thế kỷ sau. Hammurabi (1792 - 1750 trước Công Nguyên)  nổi danh vì đã tạo ra luật lệ cho người Babylon trong Bộ Luật Hammurabi. Ông chinh phục các thành phố và thành bang phía nam Mesopotamia, gồm cả Isin, Larsa, Ur, Uruk, Nippur, Lagash, Eridu, Kish, Adab,  Eshnunna, Akshak, Akkad, Shuruppak, Bad-tibira, Sippar và Girsu, thống nhất chúng vào một vương quốc duy nhất được cai trị bởi Babylon. Hammurabi cũng đã chinh phục Elam ở phía đông, và các vương quốc của người Mari và người Ebla ở tây bắc. Vào cuối triều đại của mình, sau một cuộc chiến kéo dài với vua Ishme-Dagan của Assyria, ông đã buộc người kế vị của Assyria phải cống nạp cho mình, mở rộng quyền lực của Babylon đến các thuộc địa Hattian và Hurrian của Assyria ở Tiểu Á.

Hình scan theo chiều ngang một con dấu thuộc Babylon cổ. Con dầu này có thể đã được tạo ra tại một xưởng ở Sippar (khoảng 40 dặm về phía bắc của Babylon) trong hoặc ngay sau triều đại của Hammurabi. Nó mô tả nhà vua đang thực hiện lễ hiến tế thần Mặt trời Shamash.

Sau triều đại của Hammurabi, toàn bộ miền nam Mesopotamia được xem như lãnh thổ Babylon, trong khi miền bắc đã được kết hợp thành Assyria vào nhiều thế kỷ trước. Kể từ thời điểm này, Babylon đã trở thành một trung tâm tôn giáo lớn của vùng Mesopotamia, thay thế cho các thành phố cổ của Nippur và Eridu. Đế quốc của Hammurabi rơi vào tình trạng bất ổn sau khi ông qua đời. Người Assyrian đã đánh bại và trục xuất người Babylon cũng như người Amorite. Cực nam Mesopotamia ly khai và tạo nên triều đại Sealand, và người Elamite chiếm đóng vùng lãnh thổ phía đông Mesopotamia. Triều đại Amorite vẫn nắm quyền ở Babylon, nơi đã trở lại là một thành bang nhỏ.

Vào năm 1595 trước Công Nguyên, thành phố đã bị lật đổ bởi Đế chế Hittite từ Tiểu Á. Sau đó, người Kassite từ dãy núi Zagros từ tây bắc Iran cổ đại đã chiếm Babylon, mở ra một triều đại kéo dài 435 năm. Trong khoảng thời gian này, thành phố được đổi tên thành Karanduniash. Babylon của người Kassite lệ thuộc vào Đế chế Trung Assyrian (1365 - 1053 trước Công Nguyên) ở phía bắc, và Elam ở phía đông, hai thế lực này cạnh tranh giành quyền kiểm soát thành phố. Vua Assyrian Tukulti-Ninurta I đã lên ngôi vua của Babylon từ năm 1235 trước Công Nguyên.

Vào năm 1155 trước Công Nguyên, sau nhiều lần bị tấn công và chiếm đóng liên tục bởi người Assyrian và Elamite, người Kassite đã bị truất quyền ở Babylon. Lần đầu tiên, một triều đại Akkadian phía nam Mesopotamian đã cai trị Babylon. Tuy nhiên Babylon vẫn yếu và chịu sự áp bức của Assyria. Các vị vua bản bản địa đã không thể ngăn chặn các làn sóng định cư của người Tây Semitic ngoại quốc đến từ các sa mạc của Levant, bao gồm cả người Aramean và người Sutean vào thế kỷ 11 trước Công Nguyên, và cuối cùng là người Chaldean vào thế kỷ thứ 9 trước Công Nguyên, họ đã xâm nhập và chiếm đoạt các lãnh thổ của Babylon. Người Aramean đã cai trị Babylon một thời gian ngắn vào cuối thế kỷ 11 trước Công Nguyên.

Thời kỳ Assyrian

Vua Sennacherib của Assyria trong chiến tranh Babylon, được phục hồi từ cung điện của ông tại Nineveh.

Trong thời kỳ thống trị của Đế chế Tân Assyrian (911 - 609 trước Công Nguyên), lãnh thổ Babylon đã chịu sự đô hộ cũng như kiểm soát trực tiếp của Assyrian. Trong triều đại của vua Assyria Sennacherib, Babylon đang diễn ra một cuộc nổi dậy trường kỳ, được dẫn đầu bởi một tù trưởng người Chaldean tên Merodach-Baladan, vốn là đồng minh của người Elamite, cuộc nổi dậy chỉ bị dập tắt khi thành phố Babylon bị phá hủy hoàn toàn. Vào năm 689 trước Công Nguyên, toàn bộ tường thành, đền thờ, và cung điện của thành phố đã bị phá hủy, đống đổ nát của thành phố bị ném Arakhtu, vùng biển tiếp giáp phía nam Babylon cũ. Sự phá hủy trung tâm tôn giáo này đã gây sốc cho nhiều người, sự kiện vua Sennacherib và hai con ông bị giết trong khi đang cầu nguyện thần Nisroch được xem như một hành động chuộc tội. Sau đó, người kế vị ông, Esarhaddon đã nhanh chóng xây dựng lại thành phố cũ và đã ở đó trong suốt một năm. Sau cái chết của ông, vùng Babylon được cai trị bởi con trai cả của ông, hoàng tử Shamash-shum-ukin, là người bắt đầu cuộc nội chiến vào năm 625 trước Công Nguyên với chính em của mình, Ashurbanipal, người cai trị Nineveh. Shamash-shum-ukin đã nhờ đến sự giúp sức của các bộ tộc chư hầu của Assyria, bao gồm Elam, Persia, ChaldeanSutean ở miền nam Mesopotamia, người CanaaniteArab ở vùng sa mạc phía nam Mesopotamia.

Một lần nữa, Babylon bị vây hãm bởi người Assyrian, đầu hàng vì nạn đói và các đồng minh của họ cũng bị đánh bại. Ashurbanipal đã tổ chức một "buổi hòa giải", nhưng ông không dám "nắm lấy tay" Bel. Một vị quan người Assyrian tên Kandalanu đã được bổ nhiệm làm người cai trị thành phố. Sau cái chết của Ashurbanipal, đế quốc Assyrian rơi vào hỗn loạn do một loạt các cuộc nội chiến trong suốt các triều đại vua Ashur-etil-ilani, Sin-shumu-lishir và Sin-shar-ishkun. Cuối cùng, Babylon, cũng như các vùng lãnh thổ phía đông, đã lợi dụng tình trạng vô chính phủ của Assyria để tự giải phóng khỏi sự cai trị của người Assyrian.

Đế quốc Tân Babylon

Phiên bản khôi phục của Cổng Ishtar xanh dương, cửa ngõ phía bắc Babylon. Nó được đặt theo tên nữ thần tình yêu và chiến tranh. Trang trí trên cánh cổng là các biểu tượng bò và rồng, những biểu tượng của thần Marduk.

Dưới thời Nabopolassar, một tù trưởng người Chaldean không tên tuổi vào lúc đó, Babylon cuối cùng đã thoát khỏi ách đô hộ của Assyria. Sau đó, một liên minh giữa Babylon và Cyaxares, vua của Medes, người Ba tư, người Scythiangười Cimmeria, Đế quốc Assyria cuối cùng đã bị diệt vong vào khoảng năm 612 - 605 trước Công Nguyên. Babylon trở thành thủ đô của Đế quốc Tân Babylon (hay còn gọi là Đế quốc Chaldean).[10]

Một bản điêu khắc trên đá với chân dung Nebuchadnezzar II.

Cùng với nền độc lập được khôi phục, một thời kỳ mới được mở ra, các hoạt động kiến trúc diễn ra sôi nổi khắp đất nước, đặc biệt trong triều đại của con trai Nabopolassar, Nebuchadnezzar II (604 - 561 trước Công Nguyên)[11]. Nebuchadnezzar II ra lệnh tái thiết toàn bộ các căn cứ của đế quốc, kể cả ziggurat Etemenanki, và Cổng Ishtar - cổng thành nổi bật nhất trong tám cổng thành của Babylon. Một phiên bản khôi phục của Cổng Ishtar được trưng bày ở Bảo tàng Pergamon, Berlin.

Nebuchadnezzar II còn được biết đến như người xây dựng Vườn treo Babylon - một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại - công trình được cho là đã được xây dựng để làm nguôi ngoai căn bệnh nhớ nhà của vợ ông, Amyitis. Sự tồn tại của khu vườn này còn là một vấn đề đang được tranh luận. Các cuộc khai quật bởi nhà khảo cổ học người Đức Robert Koldewey được cho là đã tìm ra phần nền của công trình, mặc dù nhiều sử gia không đồng ý về địa điểm, nhiều người tin rằng vườn treo đã có thể bị nhầm lẫn với các khu vườn thuộc kinh đô Assyrian, Nineveh.[12]

Người Chaldean cai trị Babylon không lâu; hiện vẫn không rõ rằng Neriglissar và Labashi-Marduk là người Chaldean hay người Babylon bản địa, và người cai trị cuối cùng Nabonidus (556 - 539 trước Công Nguyên) và người con của ông, Belshazzar có phải là người Assyrian đến từ Haran.

Cuộc chinh phạt của Ba Tư

Cyrus Đại đế đội vương miện Hemhem.

Vào năm 539 trước Công Nguyên, Đế quốc Tân Babylon rơi vào tay Cyrus Đại đế, vua của Ba Tư, sau Trận đánh Opis. Tường thành Babylon được cho là bất khả xâm phạm. Do đó, cách duy nhất để vào thành phố là qua các cổng thành hoặc theo dòng chảy sông Euphrates. Babylon đã cho lắp đặt các lưới kim loại dưới nước để dòng sông có thể chảy qua tường thành mà vẫn ngăn chặn được sự xâm nhập từ bên ngoài. Trong một bữa tiệc của Babylon, quân đội của Cyrus đã chặn thượng nguồn sông Euphrates, làm cho mực nước sông Euphrates hạ xuống và quân lính của ông có thể xâm nhập vào thành phố bằng dòng sông. Quân Ba Tư chiếm đóng các khu vực xa trung tâm thành phố, trong khi phần lớn người Babylon ở trung tâm không nhận ra được sự xâm nhập của người Ba Tư. Điều này đã được Herodotus ghi chép và cũng được nhắc đến trong Kinh Thánh Hebrew.

Theo Biên niên sử số 2 của Kinh thánh Hebrew, Cyrus sau đó đã ban một sắc lệnh cho phép những người bị bắt giữ, trong đó có người Do Thái, được trở về vùng đất của họ. Ghi chép được tìm thấy trên Lăng trụ Cyrus được các học giả về kinh thánh xem như bằng chứng thuyết phục cho chính sách này, mặc dù sự giải thích này bị tranh cãi vì ghi chép này chỉ nhắc đến các khu vực thuộc Mesopotamian, và không hề nhắc đến người Do Thái, Jerusalem, hoặc Judea.

Dưới triều đại Cyrus và sau đó là Darius Đại đế, Babylon trở thành thủ đô của Satrapy thứ 9 (Babylon ở phía nam và Athura ở phía bắc), nơi đây cũng là một trung tâm nghiên cứu và khoa học. Dưới thời trị vì của người Ba Tư, nghệ thuật của người Babylon cổ trong thiên văn họctoán học đã được hồi sinh, các học giả Babylon đã hoàn thiện bản đồ các chòm sao. Thành phố trở thành thủ đô hành chính của Đế quốc Ba Tư và vẫn nổi bật trong suốt hai thế kỷ. Nhiều khám phá khảo cổ học đã cung cấp nhiều hiểu biết về thời kỳ đó.[13]

Các vị vua Ba Tư đầu tiên đã cố gắng duy trì các nghi lễ tôn giáo Marduk, nhưng dưới triều đại Darius III, việc thu thuế quá mức, căng thẳng của những cuộc chiến tranh liên tục, và bất ổn của các khu vực xung quanh đã dẫn đến sự phá hoại các đền thờ và kênh rạch chính của Babylon. Nhiều cuộc nổi dậy đã diễn ra và các vị vua bản địa người Babylon đã giành được nền độc lập ngắn ngủi vào năm 522 trước Công Nguyên (Nebuchadnezzar III), 521 trước Công Nguyên (Nebuchadnezzar IV) và 482 trước Công Nguyên (Bel-shimani và Shamash-eriba). Tuy nhiên, những cuộc nổi dậy này nhanh chóng bị trấn áp và Babylon vẫn chịu sự cai trị của Ba Tư trong hai thế kỷ, cho đến khi rơi vào tay Alexander Đại đế vào năm 331 trước Công Nguyên.

Thời kỳ Hy Lạp

Alexander Đại đế tiến vào Babylon

Vào tháng 10 năm 331 trước Công Nguyên, vị vua Achaemenid cuối cùng của Đế quốc Ba Tư, đã bị đánh bại bởi quân đội của vua Hy Lạp cổ đại Alexander Đại đế trong Trận Gaugamela. Một ghi chép về cuộc xâm lược này đã ghi lại rằng Alexander đã ra lệnh không xông vào nhà của cư dân thành phố.[14]

Dưới triều đại của Alexander, Babylon lại phát triển rực rỡ như một trung tâm của học thuật và thương mại. Tuy nhiên, khi cái chết của Alexander vào năm 323 trước Công Nguyên trong cung điện của Nebuchadnezzar, đế quốc của ông bị phân chia bởi các tướng lĩnh của ông. Thời kỳ Diadochi, thời kỳ của chiến tranh trong suốt hàng thập kỷ bắt đầu. Sự hỗn loạn liên tục làm kiệt quệ Babylon. Một phù điêu vào năm 275 trước Công Nguyên cho biết cư dân của Babylon đã bị chuyển đến Seleucia, nơi một cung điện và một đền thờ được xây dựng. Sau sự kiện này, Babylon khó có thể được xem như một thành phố, mặc dù hơn một thế kỷ sau, các lễ tế vẫn được thực hiện trong các khu vực của thành phố.

Thời kỳ tái cai trị của Ba Tư

Babylon (cũng như Assyria) trở thành một tỉnh của các đế quốc Ba Tư, ParthianSassanid, trong suốt chín thế kỷ (cho đến năm 650 sau Công nguyên). Văn hóa và cư dân nơi đây vẫn không thay đổi, họ là những người nói tiếng Aramaic, những người vẫn luôn xem Babylon là quê hương của họ. Các bản thể thể hiện nền văn hóa của họ được tìm thấy ở Babylonian Talmud, đạo Manda, Kitô giáo phương Đông và Mani giáo. Kitô giáo đã được truyền bá ở Mesopotamia vào thế kỷ thứ 1 và thứ 2 sau Công nguyên, Babylon có một ghế Giám mục trong Giáo hội Kitô phương Đông cho đến sau cuộc chinh phạt của người Arab/Hồi giáo.

Cuộc chinh phạt của người Hồi giáo

Vào giữa thể kỷ thứ 7, Mesopotamia bị xâm chiếm và định cư bởi Đế quốc Hồi giáo, và một thời kỳ Hồi giáo hóa được mở ra. Babylon trở thành một tỉnh của đế quốc và nhà thờ Kitô giáo  phương Đông bị gạt ra ngoài lề xã hội nơi đây.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Babylon http://archive.boston.com/news/world/middleeast/ar... http://www.google.com/hostednews/ap/article/ALeqM5... http://prelectur.stanford.edu/lecturers/maul/ancie... http://oi.uchicago.edu/pdf/saoc62.pdf //tools.wmflabs.org/geohack/geohack.php?language=v... http://news.bbc.co.uk/2/hi/middle_east/4461755.stm http://books.google.com.vn/books?id=_xM2_PerKhoC&p... https://books.google.com/books?id=ZTsRnQEACAAJ https://www.theguardian.com/cities/2016/aug/08/los... https://www.theguardian.com/world/2005/jan/15/iraq...